Thứ Tư, 14 tháng 10, 2020
Thơ Lục Bát tháng 10.2020 P2 (nguồn Lục Bát Việt Nam)
10. TÌM
Tôi đi tìm lại phần đời
Như tìm một nửa của thời xưa qua
Bước chân sầm sập mưa sa
Tôi quay trở lại quê nhà tìm tôi !
Tôi đi tìm lại phần người
Từ trong tiếng khóc, tiếng cười cỏ hoa
Tìm rau chôn góc vườn nhà
Trong tay… một ngọn trăng tà… bâng khuâng!
Nguyễn Minh Thời
11. NẺO VỀ MIỀN XƯA
Con về tìm lại miền xưa
Thấy trong màu nắng đòng đưa tiếng chiều
Con về vấp phải cánh diều
Cơn mơ gần cạn càng liêu xiêu lòng
Con về tìm lại dòng sông
Mắt cay mặn chát đáy lòng nôn nao
Con về tìm khúc đồng dao
Gặp con thuyền giấy lấp vào tuổi thơ
Lũy tre cọt kẹt bấy giờ
Trưa hè nắng lửa mắt mờ giọt cay
Bóng làng xưa bụi phủ dày
Chìm trong khói ngùn ngụn bay nhạt nhoà
Con va vào khúc ơi à
Treo hai đầu võng tiếng bà vọng đêm
Chập chờn tim giục con tim
Dặm dài lưu lạc qua miền mơ xưa.
Nguyễn Thị Hương
12. BÂY GIỜ
Bây giờ đốt đuốc tìm nhau
Tìm câu yêu cũ lạc vào tháng năm
Đớn đau xưa gối khóc thầm
Trăng sao rụng vỡ ướt đầm đìa mưa
Ngậm ngùi muối đã thành dưa
Sầu riêng riêng hỏi hết mùa còn không?
Yêu nhau ném dải yếm hồng
Cầu duyên đã bắc bão dông vẫn chờ
Trăm năm là cái bây giờ
Qua sông dìu níu sợi tơ hương tình
Lá trầu chạm ngõ rung rinh
Hoàng hôn bỗng thấy nắng bình minh lên.
Thanh Trắc Nguyễn Văn
13. LỤC BÁT QUAN HỌ XỨ ĐÔNG
Ai đem mạ trải ra đồng
Gặt về hạt ngọc trắng trong mùa vàng
Tôi tìm trong cõi nhân gian
Nhặt câu Quan Họ hội làng tháng giêng
Í a câu hát cửa thiền
Vang - rền - nền - nẩy nơi miền thiên thai
Câu Lục ngắn câu Bát dài
Mớ ba mớ bẩy bước hài dặm xuân
Áo The khăn xếp tần ngần
Anh hai khấp khởi nhịp chân lỡ làng
Tìm trong lúng liếng nhân gian
Nhặt câu Quan Họ thành vàng xứ Đông.
Đỗ Quang Đạt
14. HẠT NHỚ HEO MAY
Ai treo vách nắng lên trời
Cửa chiều hạt nhớ hong phơi cuối ngày
Em ngồi vốc chút heo may
Khát chờ thu đợi xếp dày nỗi mong
Lòng son quấn quýt hương nồng
Thiền trên cánh gió ngát bông mây đời
Dây gàu thả nước giếng khơi
Đã nghe sóng sánh cả lời ru xưa
Hoang sơ va khuyết gáo dừa
Vết loang trầm tích dạ thưa cau trầu
Gập ghềnh bãi bể nương dâu
Xói mòn năm tháng mái đầu pha sương
Đông về se sẽ bên đường
Sóng trong tiềm thức vẫn đương xô dòng.
Lại Quốc Bửu
15. ẤM ÁP TÌNH CHA
Cha như ánh nắng mặt trời
Khai quang mở lối bước đời con đi
Cha như gió mát diệu kỳ
Thổi vào trang vở, cô ghi điểm mười
Khi vui ít thấy cha cười
Lúc buồn nước mắt nuốt trôi trong lòng
Bạc đời với nghiệp canh nông
Bữa no bữa đói, phập phồng thiên tai
Mái nghèo, giật gấu vá vai
Đất cằn gốc sắn, vồng khoai cũng cằn
Gánh đời trĩu nặng đòn cân
Tháng ba ngày tám, bước chân lần hồi
Ruộng vườn lấm láp mồ hôi
Tiếng ho nằng nặng khi trời chuyển mưa
Lót lòng cơm nguội, thìa dưa
Xá cầy cháy mặt, đường bừa sã vai
Cho con rộn bước tương lai
Cho con vững chí đường dài, dặm xa
Mấy lần vấp ngã vượt qua
Luôn nghe văng vẳng lời cha năm nào
Suối nguồn tuôn chảy rì rào
Cha là nắng gió ngọt ngào quê hương.
Phạm Luyến
16. THU TÀN
Lặng nghe xào xạc ngoài kia
Lá chao nghiêng rụng đông về đó em
Bình minh thắp lửa đốt đèn
Xua tan giá lạnh đêm đen thu tàn
Lá vàng hoa Khế nát tan
Cánh vương rớt rụng muôn vàn nhớ thương
Người đi biền biệt tha hương
Thấu chăng giá lạnh đêm trường về đâu
Mây trôi nước chảy chân cầu
Lơ thơ róc rách đan câu tơ lòng
Lá vàng rớt rụng sầu đong
Hoàng hôn vẳng tiếng chuông đồng Chùa quê
Đỗ Quang Đạt
17. NÀNG THU
Nàng thu dịu ngọt móng rồng
Hương thơm ướp cả cầu vồng sau mưa
Heo may nhún nhảy đong đưa
Nắng vương ngực áo... quả vừa chín cây
Nàng thu đỏng đảnh lắm thay
Mây buông dải yếm buộc say nồng nàn
Nàng thu quá đỗi dịu dàng
Mà hừng hực cháy rám vàng bưởi yêu
Đủ lạnh sớm, đủ ấm chiều
Đủ thương đủ ghét, đủ yêu đủ ngờ
Nửa như thực, nửa như mơ
Nửa da diết, nửa hững hờ thế thôi...
Thu vàng đỏng đảnh trêu ngươi
Khiến anh ngơ ngẩn một đời đắm say
Anh tìm sợi gió heo may
Neo nàng thu ở ngất ngây bến tình!
Trần Thị Thu Hà
18. THÈM, ƯỚC!
Bỏ con mình mẹ “đi” đâu
Chỏng chơ chiếc cối giã trầu buồn hoen
Bỏ thời yếm thắm răng đen
Nụ cười gọi nắng sau thèn thẹn duyên
Miếng trầu khơi gợi lòng riêng
Mở đầu chuyện đến nỗi niềm của nhau
Ngấm tình nghĩa “tích trầu cau”
Gặp duyên thầm mẹ thắm trầu… cha say
Nếu thu không cảm heo may
Lẽ nào mẹ lại đắng cay cam nghiền
Lẽ nào vì thoáng ngả nghiêng
Thế đời mẹ trả nợ duyên, lẽ nào…
Truân chuyên vò bạc yếm đào
Răng khôn hóa “dại” hanh hao nét cười
Trộn bao cay đắng kiếp người
Cối trầu mẹ giã ra tươi đỏ tình…
Mẹ “đi” vôi vón cục bình
Trầu buồn úa rụng cau hình như đau
Thèm… nghe lại “tích trầu cau”
Ước… thêm lần được giã trầu mẹ xơi!
Nguyễn Xuân Môn
19. XÓM NGHÈO
Hết gạo vay tạm nhà bên
Ngại chi xóm láng tắt đền có nhau
Nhìn lên đã bạc mái đầu
Vẫn chưa hết nợ qua cầu bập bênh
Ngồi trên thuyền nước lênh đênh
Tay chèo thì dở sóng dềnh thì to
Cậy ai ai biết ai cho
Xóm nghèo tình cảm mai chờ gió êm
Thuận buồm xuôi mái trăng lên
Hò khoan anh chị ngọt mềm đêm trăng
Có người em gái dịu dàng
Có vai áo bạc vẫn sang nụ cười
Phạm Như Đức
--------------------------------------------------
Ghi chú: ảnh minh họa sưu tầm từ internet
Nhãn:
Luc Bat Viet Nam
Đăng ký:
Đăng Nhận xét
(
Atom
)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét