Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2020

Trang Ngõ nhỏ Văn Chương: Ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến (2)

Photo by Phúc Lê Quang


BA BÀI THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾN (2)

Cái hư ảo, tàn tạ trước hết được thể hiện ở thời gian của ba bài thơ thu. Cả ba bài thơ đều có bối cảnh là chiều và tối mùa thu. Người trung đại có tư duy âm dương rõ rệt. Mùa thu, chiều tối thuộc thời gian âm (dương là mùa xuân, mùa hạ; buổi sáng, buổi trưa…). Nguyễn Khuyến đặt thời gian âm của ngày vào thời gian âm của mùa. Chiều thu trong Thu vịnh. Rồi lại chiều và đêm lần lượt tiếp tục xuất hiện trong Thu ẩm, Thu điếu. Chỉ khác là lúc có trăng (Song thưa để mặc ánh trăng vào; Làn ao lóng lánh bóng trăng loe), lúc ngặt chỉ màu tối đen dày đặc trùm lấp, vây bủa đường thôn (Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè). Thời gian buổi sáng là khởi dương, buổi trưa là chính dương; đến chiều tối, thời gian đã trở về với khí âm. Bản thân thời gian chiều tối này gợi ý niệm về sự tàn lụi. Đi cùng với sự tàn lụi là hư ảo (luôn vận động, biến đổi, thoắt chốc đã chuyển từ dạng thức này sang dạng thức khác). Trong thời khắc tàn lụi, hư ảo của chiều tối mùa thu ấy, các hình ảnh khác lần lượt xuất hiện trong hệ thống với nó. Đó là cần trúc trong bài Thu vịnh:

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Từ láy lơ phơ gợi lên hình ảnh cần trúc gầy guộc, lá lưa thưa. Trước làn gió hắt hiu, cành trúc càng già yếu, xác xơ, bơ phờ. Nó gần như đã cạn kiệt sức sống. Hình ảnh lá vàng biểu thị sự tàn tạ rõ hơn:

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo


Photo by Phúc Lê Quang



Photo by Phúc Lê Quang


Lá vàng là chiếc lá đã bị chuyển từ màu xanh tràn đầy sinh khí sang màu vàng của sự già nua, cuối đời! Với hình ảnh chiếc cần trúc lơ phơ và lá vàng trước gió, cái tàn lụi trong thơ thu Nguyễn Khuyến đã được thể hiện cả ở hai góc độ: thời gian và sự vật. Những hình ảnh đó gợi sự hư ảo – sự kết thúc của kiếp cây lá!
Trạng thái hư ảo còn được khắc hoạ bổ sung ở tập hợp các hình ảnh khác. Đó là sóng nước, tầng mây, ánh sáng lập loè của đom đóm, cái phất phơ khói nhạt, cái lóng lánh ánh trăng loe. Cả hình ảnh khóm bèo trên ao cũng khiến ta liên tưởng đến từ “bèo bọt”! Tất cả những hình ảnh đó làm cho mọi tầng không gian cao xa (tầng mây), thấp gần (sóng nước, khói, trăng) đều không tĩnh tại mà được khắc hoạ trong xu thế động với các từ ngữ: gợn, lập loè, phất phơ, lóng lánh… Nó thay đổi (dù nhỏ) trong từng tích tắc. Thay đổi rõ nhất khiến nhân vật trữ tình thảng thốt là hình ảnh hoa năm ngoái, ngỗng nước nào:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Ở những câu trên, sắc thái thực – ảo còn nghiêng về cái thực. Đến những câu này, hình ảnh thơ chuyển sang hẳn góc độ ảo. Hoa năm ngoái có còn là bông hoa thực, hay chỉ là bông hoa còn sót lại trong tâm tưởng nhân vật trữ tình? Ngỗng nước nào diễn tả một trạng thái bất tri, vô tri – không biết, không hiểu. Năm ngoái là thời gian, nước nào là không gian. Cả thời gian và không gian đều chìm trong tâm thái chơi vơi, chới với.

Cùng với sự tàn lụi, hư ảo, sự vật hiện tượng trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến còn thụ động. Tính chất thụ động cũng được biểu thị ở mọi chiều kích không gian và ở các sự vật, hiện tượng:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Thu điếu)

Vì sao lại nói thụ động? Bởi lẽ, sóng, lá, mây, bèo đều không tự chủ. Chúng không thể tự chuyển động hoặc tự đứng yên mà luôn bị chi phối, phụ thuộc vào yếu tố khác. Sóng, lá, mây đều bị tác động bởi gió. Sóng theo làn hơi! Còn lá cũng không được cố định trên cây nữa mà đã lìa cành, bị gió cuốn vèo đi. Chiếc lá không thể tự định đoạt sẽ rơi về đâu mà gió đưa đến đâu thì ở tại đó! Chữ vèo vừa diễn tả độ bay nhanh vừa cho thấy sự không thể nào cưỡng lại gió của chiếc lá. Tầng mây cũng không tự định hướng được đường bay của mình giữa không trung. Nó còn có số phận trôi nổi hơn cả sóng và lá. Vì lẽ sóng trên ao có bờ, lá vàng chắc hẳn sẽ về với đất. Còn mây đi đâu, về đâu giữa bầu trời xanh mênh mông, vô tận? Tiếp nối với ý của các câu thơ trên, hình ảnh tầng mây thêm một lần nữa gia tăng yếu tố thụ động ở mức độ cao hơn, toàn diện hơn. Vì trên cao có mây, dưới thấp có bèo: mây trôi, bèo nổi – ở đâu cũng lênh đênh, phiêu dạt! Hình ảnh tầng mây lơ lửng giữa nền trời bổ sung thêm một ý nữa vào tính chất của các sự vật trong bài thơ: sự trôi nổi vô định, vô phương! Một mặt nữa, tầng mây lơ lửng giữa trời xanh còn thêm ý về sự đối lập giữa cái nhỏ bé hữu hạn (tầng mây) với cái mênh mông vô hạn (trời xanh).

Có thể nói, bằng tài năng bậc thầy, Nguyễn Khuyến đã khiến cho ba bài thơ thu như những bức tranh 3D, 5D bằng ngôn ngữ, cho phép người đọc có cái nhìn “khúc xạ” nhiều chiều. Mỗi chiều thấy một sắc thái khác nhau. Người đọc dễ nhận thấy những bức tranh thu thơ mộng. Tuy nhiên, sang một hướng tiếp cận khác, ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến không còn vẻ đẹp nên thơ, thanh bình nữa! Người đọc có thể thấy sởn gai ốc, sợ hãi vì sự ngột ngạt, vắng lặng, hư ảo, tàn tạ, thụ động của cảnh vật.

2. Sự buồn thảm tê tái với tình đời đơn độc, chí khí cùng kiệt
Văn chương thời trung đại thường lấy cảnh ngụ tình. Đặc điểm nhỏ nhoi, hư ảo, thụ động của cảnh vật biểu thị cái nhỏ nhoi, hư ảo, thụ động của một kiếp người. Từ ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh thơ, hình ảnh con người trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến được thể hiện trong sự già nua, rệu rã, cô độc giữa cảnh tàn, thời tàn, đời tàn. Để thấy được phương diện này cần đặt những bài thơ thu của Nguyễn Khuyến vào hoàn cảnh sáng tác và cảm những bài thơ đó từ đặc trưng của văn chương trung đại với những đặc điểm ước lệ, sử dụng điển tích, điển cố…

Nguyễn Khuyến sáng tác ba bài thơ thu vào cuối thế kỉ XIX. Khi ấy, nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến cáo quan về quê Bình Lục – Hà Nam. Ông mang nỗi đau lớn của một con người hiển danh khoa bảng vào bậc nhất (Tam nguyên – ba lần đỗ đầu cả thi Hương, thi Hội và thi Đình) nhưng trở thành kẻ bất lực, vô nghĩa trước thời cuộc. Ba bài thơ thu khắc hoạ thấm thía nỗi đau của Tam nguyên Yên Đổ giữa thời mạt.

Trước hết là nỗi đau cô độc. Nỗi đau này hiện diện ở nhiều hình ảnh. Dễ thấy nhất là ở hình ảnh chiếc thuyền, căn nhà, cái ngõ…

– Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè

Chỉ có một con thuyền, năm gian nhà. “Một”- đây là số từ chỉ sự duy nhất – con thuyền đã nhỏ bé còn nổi đơn độc! “Năm” – tưởng có số lượng nhiều, nhưng lại vẫn chỉ là của một ngôi nhà nhỏ! Một con thuyền, một cái nhà là không gian của cá nhân. Thế giới đồng loại của con người được Nguyễn Khuyến mở rộng tới ngõ. Nhưng “ngõ” lúc thì chỉ đặc một màu tối, lúc thì vắng teo! Tức là vắng tanh, vắng ngắt, không có lấy một bóng người. Hình ảnh thơ có sự thay đổi việc diễn tả thế giới con người. Từ “một chiếc thuyền câu”, “năm gian nhà cỏ” – đồng nghĩa với việc có một người ngồi câu trên ao, có một người sống trong căn nhà, không gian mở rộng hơn với “ngõ” – lối của nhiều người lại qua, nhưng số “một”, số “năm” đến đây đã chuyển sang “vắng teo”. Thế là sự trống vắng đã ở mức tuyệt đối! Nó đẩy con người trên một cái ao, một cái nhà vào sự đơn độc với hiện tại.

Điều đáng nói thêm, trúc trong văn chương trung đại là hình ảnh ước lệ tượng trưng cho bậc quân tử. Ngõ trúc vắng khách nghĩa là thế giới quân tử anh hùng cũng không còn một ai. Có thể khẳng định như vậy. Vì lẽ, những hình ảnh ước lệ tùng, cúc, trúc, mai vốn rất xanh tươi, khoẻ khoắn, đẹp đẽ trong thơ Nguyễn Trãi lại đều trở thành ảm đạm, mơ hồ trong thơ Nguyễn Khuyến. Trúc trong thơ Nguyễn Khuyến nào vắng teo (Ngõ trúc quanh co khách vắng teo), nào lơ phơ (Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu). Nó khiến người ta liên tưởng đến những bậc quân tử lay lắt không còn nhuệ khí, không còn khí chất “quân tử cố cùng”! Cô đơn với hiện tại, nhân vật trữ tình tìm đến việc kết nối với quá khứ ở bài Thu vịnh. Song:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Vậy là chẳng thể tri kỉ với người xưa! Nghĩa là chẳng thể tìm kiếm sự tương giao giữa cả hiện tại lẫn quá khứ. Hình ảnh con người đã bị đẩy lên đến mức cô đơn tuyệt đối. Chỉ còn cách mượn rượu giải sầu, nhưng trớ trêu thay:

Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.

Cô đơn, thảm thương nhất là hình ảnh con người thu mình trên cái thuyền bé ở cái ao nhỏ:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến điển tích Lã Vọng câu cá. Nhưng tương phản, trái ngược hoàn toàn về chất. Thời thế đảo điên, Khương Tử Nha – Lã Vọng về sống ẩn dật nơi thác sâu rừng thẳm. Tuy nhiên, ông đoán định, nắm chắc thời thế, biết rõ thời vận. Vì thế, ông ngày ngày ra câu cá ở bờ sông Vị chờ thời cơ để lập nghiệp lớn. Lưỡi câu của ông thẳng, không có mồi vì ông không câu cá mà đi “câu” minh chủ, công hầu, khanh tướng. Quả nhiên, ông đã “câu” được Cơ Xương. Về sau với tài an bang trị quốc bình thiên hạ, Khương Tử Nha đã lập nhiều công lao hiển hách trong công cuộc phạt Trụ, lập ra triều đại nhà Chu, và ông được phong hầu ở đất Tề, tức là Tề Thái Công sau này. Đó là một điển tích hết sức hào hùng, to lớn về một Khương Tử Nha kiên nhẫn để đợi thời cơ, làm nên sự nghiệp lớn khiến cho hậu thế ai cũng phải tôn kính.

Bậc Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng ở ẩn và ngồi câu. Nhưng là câu trong mùa thu lá vàng – tức là lúc thời tàn, đời tàn mà cuộc đời thì hạn hẹp như ao tù nước đọng; câu trong sự vô vọng bởi đơn độc; câu trong sự bi quan vì không biết thời thế sẽ đi đâu về đâu (như mây trôi trên trời xanh; bèo nổi dưới mặt nước); câu trong sự khoanh tay bó gối như ý thức rõ về sự bất tài của bản thân (tựa gối ôm cần)… Có thể nói đó là hình ảnh sự kết lại những nỗi đau đớn khôn nguôi của một bậc trí thức bất lực trước thực tế và không đoán định được tương lai của thời cuộc. Còn đâu khí phách của nhân vật chính nhân quân tử trong văn học trung đại? Không còn nữa tư thế: Hoành sóc giang san cáp kỉ thu (Cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông đã mấy thu – Phạm Ngũ Lão). Không còn nữa khí thế:

Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
(Nguyễn Công Trứ)

Chí cùng lực kiệt, Tam nguyên Yên Đổ tìm đến cảnh: cảnh buồn bã ảm đạm; tìm đến rượu: rượu chẳng thể giải sầu, tìm đến người: vắng teo, hiu hắt, tìm cố nhân lại thẹn với người xưa. Thế là không có ai làm bạn. Nhìn lại về mình thì thấy mình đã như chiếc lá vàng rơi giữa đời, giữa thời cuộc… Tất cả khiến Tam nguyên Yên Đổ đau đớn đến tê dại. Ông nhìn hoa mà tưởng hoa năm ngoái, nghe tiếng chim kêu trên trời mà tự hỏi:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

là bởi thời đẹp đẽ của cả bản thân và đất nước đã thuộc về quá khứ. Nay là cảnh đen tối của một đất nước nô lệ, lầm than. Ngỗng nước nào? Vì mọi vật trên đất nước này không còn là của mình nữa. Trời đất đã là của giặc, cỏ cây, chim muông cũng là của giặc. Câu thơ là tiếng kêu thương thất thần của một trí thức mất nước!

Ở ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến còn có một điều đáng lưu ý nữa. Đó là sự tổng hợp nhiều điển tích, điển cố: thi đề mùa thu, Đào Tiềm ở ẩn, Lã Vọng câu cá, lều cỏ Khổng Minh (thảo lư), rồi mộc, diệp, hoa, điểu, tửu… từ những câu:

– Ngô đồng nhất diệp lạc,
Thiên hạ tận tri thu.
Một chiếc lá ngô đồng rụng,
Thiên hạ đều biết mùa thu đã đến)
(Sách ­Quảng quần phương phả­, Mộc phả)

– Cảm thời hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Cảm thời hoa rơi lệ,
Hận biệt li, chim đau đớn lòng)
(Xuân vọng – Đỗ Phủ)

Nguyễn Khuyến đã “chế biến” thi liệu Hán học tài đến mức gần như làm mất hẳn đi dấu vết của điển. Đồng thời, ông “xoay ngược” một số điển, làm chúng khác biệt hoàn toàn về tính chất so với ý nghĩa ban đầu. Lã Vọng câu cá an nhiên đợi vận thành một người ngồi câu trong tàn tạ, tuyệt vọng. Thảo lư  – lều cỏ giữa rừng đầy tràn gió mát, trăng trong của Khổng Minh thành cái nhà cỏ thấp “le te” giữa xóm ngõ tối tăm, ngột ngạt. Trúc vốn là biểu tượng khỏe khoắn, thẳng tắp đến thơ Nguyễn Khuyến thành “lơ phơ” hiu hắt…  Điều này khiến cho ba bài thơ thu đọng ý vị mỉa mai, chua chát của nụ cười trào lộng kín đáo mà cay đắng của Nguyễn Khuyến. Nhận ra những điển tích, điển cố ấy trong ba bài thơ thu, người đọc càng thấm thía những nỗi tái tê của Tam nguyên Yên Đổ sau khi cáo quan về ở ẩn.

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến cũng tổng hợp nhiều nỗi đau ông từng thổ lộ. Đó là nỗi đau cô đơn trong buổi xế chiều của cuộc đời:

Đời loạn đi về như hạc độc,
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.
(Cảm hứng)

Nỗi đau mất nước:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Quốc kêu cảm hứng)
Nỗi xấu hổ với danh vị, bằng cấp ở đỉnh cao mà lại bất lực, vô dụng:

– Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng.
(Tự trào)

– Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già…
(Ngày xuân dặn các con)

Có thể nói, Nguyễn Khuyến đã diễn đạt sự thảm bại đến cùng của con người cá nhân mình. Ông kéo những thứ vốn là ước lệ: thi đề mùa thu, hình ảnh trời xanh, lá vàng, hoa, điểu…, những hình ảnh đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ: ao, nhà, ngõ… và cả tài thơ văn – gieo tử vận “eo” thành công để bọc nỗi đau xót khôn tả của mình về vận kiếp! Tài năng của Nguyễn Khuyến không chỉ là ở sự vận dụng sáng tạo thi liệu truyền thống kết hợp với việc sử dụng nhuần nhuỵ ngôn ngữ tiếng Việt, mà còn là ở chỗ Nguyễn Khuyến không dùng trực tiếp đến những từ ngột ngạt, bế tắc, đau đớn… mà người đọc vẫn thấy nỗi tê tái đến ứa máu qua từng con chữ, từng hình ảnh thơ! Đau buồn dồn tụ lại trong cả ba bài thơ cho thấy sừng sững chân dung một Tam nguyên Yên Đổ đau khổ, cay đắng về bản thân, về thời thế!

Kết luận

Tác phẩm nghệ thuật thường có tính đa nghĩa. Tác phẩm hay của những tác giả lớn càng chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa đưa độc giả đi từ những khám phá này đến khám phá khác. Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến là những tác phẩm như thế. Đây là những thi phẩm cho phép người đọc cảm nhận từ nhiều góc độ, chiều kích khác nhau. Đặt các hình ảnh của ba bài thơ thu vào cùng hệ thống, xem xét chúng dưới góc độ ước lệ của văn chương trung đại và hoàn cảnh sáng tác có thể nhận thấy cảnh sắc trong ba bài thơ thu không nên thơ, tâm sự trong ba bài thơ thu không dừng lại ở u hoài thầm kín. Ngược lại, đó là trạng thái tù túng ngột ngạt vây hãm, là sự nổi trôi, hư ảo, vô định của thế giới hiện tượng và sự nhỏ nhoi đơn độc, bất lực của con người trước cảnh tàn, đời tàn, thời tàn. Chính điều này khiến cho ba bài thơ thu Nguyễn Khuyến kết tụ sắc thái đau buồn, chán nản, tuyệt vọng của thơ Nôm Nguyễn Khuyến và thống nhất với đặc điểm con người trong sáng tác của ông: “Nhà nho xưa thường tự lí tưởng hoá mình, tự vận với các bậc danh sĩ quá khứ. Nguyễn Khuyến bước sang giai đoạn tự trào, tự phủ nhận”; “Ông là nhà thơ cổ điển đầu tiên thấy cái rỗng không của con người lí tưởng truyền thống, là nhà thơ mở đầu sự đổi thay các ý nghĩa tượng trưng của hệ thống thi pháp cổ xưa”. Chỉ riêng với ba bài thơ thu này, Nguyễn Khuyến đã vừa chứng tỏ một tài năng thi ca bậc thầy vừa thể hiện thấm thía nỗi lòng nhức nhối của một trí thức tự thấy mình bất lực, vô nghĩa trước thời cuộc!

(Ngõ nhỏ Văn Chương)


Photo by Phúc Lê Quang


-----------------------------------------------------------------------------------------
Ghi chú: ảnh Photo by Phúc Lê Quang minh họa sưu tầm từ internet.

Không có nhận xét nào :